Trong nhiều thập kỷ qua, thuật ngữ GIS - hệ thống thông tin địa lý đã trở nên quen thuộc và phổ biến. Những năm gần đây, một khái niệm mới “Công nghệ thông tin địa lý” (Geographic Information Technologies - GIT) đã được đề cập đến với phạm vi rộng hơn, hiện đại hơn GIS và nó đã trở thành một thuật ngữ khá phổ biến trong hệ sinh thái địa lý. GIT bao gồm các thành phần: Viễn thám (RS), hệ thống thông tin địa lý (GIS), hệ thống định vị vệ tinh toàn cầu (GNSS), công nghệ thông tin và truyền thông (ICT). Trên thực tế, Bộ Lao động Hoa Kỳ đã chỉ định công nghệ thông tin địa lý là một trong ba “công nghệ lớn” của Thế kỷ 21 - ngay sau công nghệ nano và công nghệ sinh học. Sự chấp nhận và tác động rộng rãi của GIT với xã hội ngày nay dựa trên sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, các phương tiện điện tử thông minh, dữ liệu thông tin địa lý đã được khẳng định và được coi trọng “một số hệ thống thông tin có tầm quan trọng chiến lược đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia - một dạng cơ sở hạ tầng quốc gia, bên cạnh các cơ sở hạ tầng khác”.
Để đánh giá tổng quan về GIT đối với một quốc gia là rất khó khăn, bởi thông tin chính xác, định lượng cần phải được điều tra khá tỉ mỉ. Việc tiếp cận GIT theo quan điểm “trụ cột” hình thành và “vai trò” phát triển sẽ cung cấp cái nhìn khái quát về GIT ở Việt Nam. Xu hướng của GIT đó là mối liên kết chéo của công nghệ không gian địa lý và kỹ thuật số, tức là dữ liệu địa lý được thu nhận, xử lý, lưu trữ và cung cấp trên các nền tảng khác để tạo ra kiến thức và các giải pháp hữu ích. GIT bao gồm 3 trụ cột chính: Thu nhận và xử lý; tiêu chuẩn và quy trình; quản lý và chia sẻ. Về vai trò, GIT cần được xem xét trong chức năng, nhiệm vụ của ngành ĐĐ&BĐ với các chiến lược, chương trình lớn của quốc gia.
Về công nghệ thu thập và xử lý: Lĩnh vực ĐĐ&BĐ đã đi được một chặng đường dài, từ việc sử dụng thiết bị kinh vĩ đo góc, đo cạnh; biên tập, biên vẽ bản đồ trên giấy,... cho đến nay, các thiết bị công nghệ đã phát triển vượt trội, thu nhận thông tin, dữ liệu nhanh hơn, chính xác hơn, tiện ích hơn, đặc biệt dữ liệu đều ở dạng số. Đề cập đến công nghệ ĐĐ&BĐ và thông tin địa lý trong thu nhận dữ liệu có nhiều cách tiếp cận và đánh giá trình độ công nghệ, năng lực khác nhau. Theo chuyên môn bao gồm công nghệ đo cao, công nghệ định vị, công nghệ đo sâu, công nghệ viễn thám, công nghệ GIS,... theo sản phẩm bao gồm công nghệ thu nhận dữ liệu, công nghệ phân tích và xử lý dữ liệu, công nghệ chia sẻ và lưu trữ dữ liệu,... hoặc theo phạm vi triển khai có công nghệ đo đạc biển, công nghệ đo đạc bằng tàu bay, công nghệ đo đạc mặt đất,... hầu hết đều được thu nhận, xử lý và chia sẻ trên nền tảng ICT. Mặt bằng công nghệ chung của ĐĐ&BĐ nước ta từ các cơ quan nhà nước đến các doanh nghiệp đang ở mức khá so với các nước trong khu vực. Các kết quả ứng dụng công nghệ đo vẽ ảnh số, công nghệ LiDAR trong thành lập bản đồ địa hình, bản đồ địa chính, mô hình số độ cao; ứng dụng công nghệ đo sâu chùm tia trong đo đạc, thành lập bản đồ địa hình đáy biển; nghiên cứu ứng dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu nền địa lý quốc gia; xây dựng và phát triển mạng lưới trạm định vị vệ tinh thường trực quốc gia (VNGEONET); phát triển hạ tầng dữ liệu không gian địa lý quốc gia,... đã tạo ra nhiều bộ bản đồ địa hình, cơ sở dữ liệu nền địa lý quốc gia phủ trùm lãnh thổ.
Về thiết bị công nghệ, các đơn vị, doanh nghiệp trong lĩnh vực ĐĐ&BĐ đều đang sử dụng của các hãng thiết bị lớn và uy tín trên thế giới như Trimble, SOKIA, Leica, NIKON, TOPKON, GEOMAX,... về phần mềm công nghệ, có thể kể đến như ESRI, INTERGRAPH, ERDAS, Bernese,... Từ năm 2003, Việt Nam đã tiếp nhận và khai thác trạm thu ảnh viễn thám SPOT, đã có vệ tinh VNRedSat thuộc hệ thống giám sát tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Về tiêu chuẩn và quy trình: Luật ĐĐ&BĐ là văn bản pháp lý quan trọng và cao nhất, điều chỉnh mọi hoạt động ĐĐ&BĐ đã được Quốc hội thông qua năm 2018. Dưới Luật đã có 2 nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật, quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực ĐĐ&BĐ; 12 tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia; hơn 20 thông tư ban hành về quy định kỹ thuật, quy trình công nghệ, định mức kinh tế - kỹ thuật. Nói chung về hành lang pháp lý trong hoạt động ĐĐ&BĐ đã và đang được hoàn thiện một cách kịp thời, có tầm nhìn, hiện đại, phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các văn bản về kỹ thuật - công nghệ đã phát huy được trong thực tiễn, đáp ứng theo phát triển của xã hội, xu thế về công nghệ trong tương lai. Bên cạnh đó, các văn bản quy định về hoạt động viễn thám nói chung và công nghệ - kỹ thuật ứng dụng viễn thám nói riêng cũng đã được ban hành.
Về quản lý và chia sẻ: Tất cả dữ liệu ĐĐ&BĐ đều được lưu trữ ở dạng số, việc khai thác, sử dụng tài nguyên số này là bài toán của công nghệ thông tin và truyền thông, các phương tiện được sử dụng để cung cấp các giải pháp đưa tri thức, đưa thông tin, đưa tài nguyên đến người dùng cuối thông qua Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI). Vì vậy, điện toán đám mây (IC), truyền dẫn không dây băng thông rộng và dữ liệu lớn (WBB), phương tiện truyền thông xã hội, ứng dụng di động và các cổng thông tin Web (nói chung là các nền tảng cung cấp - Delivery platforms). Trong thời gian gần đây, các vấn đề về ứng dụng ICT vào khai thác dữ liệu bản đồ, dữ liệu nền địa lý quốc gia, khai thác WebGIS đã được nhiều cơ quan, đơn vị sử dụng. Đặc biệt, việc nghiên cứu ứng dụng “khoa học máy tính hiện đại” như CSDL, trí tuệ nhân tạo, cấu trúc dữ liệu và thuật giải, học máy, học sâu,” đã tạo ra và cung cấp kiến thức mới, sản phẩm mới cho người dùng một cách hiệu quả và thông minh hơn.
Nói tóm lại, các nền tảng cơ bản về thông tin, dữ liệu, công nghệ, thiết bị đo đạc bản đồ ở Việt Nam cơ bản đáp ứng cho sự phát triển của GIT trong tương lai. Hiện nay, chính phủ cũng như người dân đang đòi hỏi những vấn đề rất cụ thể đối với GIT, đó là vai trò của GIT trong chuyển đổi số, chính phủ điện tử, phát triển NSDI, xây dựng thành phố thông minh (smart city),... Dữ liệu nền cơ sở địa lý quốc gia các tỷ lệ đã phủ trùm lãnh thổ, đáp ứng độ chính xác, mức độ chi tiết và thống nhất, đáp ứng sứ mệnh của ĐĐ&BĐ trong quá trình chuyển đổi số quốc gia, xây dựng chính phủ điện tử và xây dựng đô thị thông minh.
Như vậy, GIT đã tác động nhiều đến tầm quan trọng của chúng ta về sản phẩm của ĐĐ&BĐ. Theo đó, đo đạc bản đồ thay vì chỉ đơn thuần cung cấp các dữ liệu đầu vào cho việc đo, đếm, định vị, dẫn đường, thống kê,... mà còn có vai trò tích cực và quan trọng trong quá trình phân tích, đánh giá, lượng hóa và ra quyết định dựa trên công nghệ thông tin địa lý. Chính vì vậy, sự đổi mới sáng tạo mạnh mẽ, đáp ứng các nhu cầu ngày càng gia tăng, phức tạp hơn của các lĩnh vực KT-XH trong Thế kỷ 21.
PGS, TS. NGUYỄN PHI SƠN
Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 19 (Kỳ 1 tháng 10) năm 2023)